Ngày 30/9, TAND Tối cao đã ban hành Nghị quyết 04/2025/NQ-HĐTP về hướng dẫn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 và Điều 52 Bộ luật Hình sự (BLHS). Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/11/2025.
Theo đó, tại Điều 2 Nghị quyết 04/2025/NQ-HĐTP, TAND Tối cao đã có hướng dẫn và giải thích rõ nội dung của từng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS, trong đó có tình tiết "phạm tội do lạc hậu" quy định tại điểm m khoản 1 Điều 51 BLHS.
Cụ thể, theo hướng dẫn tại Nghị quyết 04/2025/NQ-HĐTP, tình tiết phạm tội do lạc hậu là trường hợp phạm tội do nhận thức, trình độ thấp kém mà không nhận thức đầy đủ tính chất nghiêm trọng do hành vi của mình gây ra hoặc không theo kịp đà tiến bộ, đà phát triển chung của xã hội.
Chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội do lạc hậu” nếu sự lạc hậu đó là do nguyên nhân khách quan đưa lại như: do đời sống xã hội nên không hiểu biết hoặc kém hiểu biết về pháp luật, không được học tập, không có điều kiện thực tế để nhận biết cái đúng, cái sai trong cuộc sống...
Ví dụ: Sùng Văn A. là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn vẫn còn phong tục bắt vợ từ sớm. A. đã bắt chị Vàng Thị B. 14 tuổi về làm vợ nhưng không có sự đồng thuận của chị B dẫn đến chị B có con khi mới 15 tuổi. Trường hợp này, Sùng Văn A. được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm m khoản 1 Điều 51 của BLHS.

Ngoài ra, cũng tại khoản 11 Điều 2 Nghị quyết 04/2025/NQ-HĐTP, TAND Tối cao cũng hướng dẫn và giải thích rõ về tình tiết “phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra” quy định tại điểm l khoản 1 Điều 51 của BLHS.
Cụ thể, “phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra” là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội trong khi bị hạn chế khả năng nhận thức, không đủ tỉnh táo để nhận biết một cách đầy đủ mức độ nguy hiểm cũng như hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra. Người phạm tội bị hạn chế khả năng nhận thức do nguyên nhân, yếu tố khách quan tác động (như: bị cưỡng ép, lừa gạt để sử dụng chất kích thích mạnh...), chứ không phải do bản thân người phạm tội gây ra.
Khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ này thì mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phụ thuộc vào tính chất, mức độ bị hạn chế khả năng nhận thức của người phạm tội và hoàn cảnh, nguyên nhân, yếu tố khách quan tác động đến nhận thức của người phạm tội.
Ví dụ: Nguyễn Văn A. biết Phạm Văn B. nếu uống rượu thì sẽ gặp tình trạng hạn chế khả năng điều khiển hành vi. A. đổ rượu vào lon nước ngọt cho B. uống. Biết mình đã uống rượu, B. tức giận, bỏ về. Trên đường về, thấy chị Tạ Thị C. nên B. đã xông vào đánh chị C., hậu quả chị C. bị tổn thương cơ thể tỉ lệ 30%. Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định pháp y tâm thần, kết quả giám định kết luận: tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, về mặt y học, B. bị trạng thái loạn thần cấp tính xảy ra do rượu (say rượu bệnh lý). Trường hợp này, Phạm Văn B. được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm l khoản 1 Điều 51 của BLHS.
Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2015 quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:
1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng.
2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt