Bỏ giấy phép xây dựng: Cần xây dựng quy trình hậu kiểm rõ ràng, khả thi

Luật sư cho rằng để tránh biến cải cách thành “kẽ hở”, cần ban hành hướng dẫn chi tiết về hậu kiểm, cơ chế thông báo xây dựng và quy định rõ trách nhiệm quản lý của chính quyền cơ sở. Đồng thời, tuyên truyền để người dân hiểu rằng miễn giấy phép không có nghĩa là miễn tuân thủ pháp luật.

Liên quan về việc có thể bỏ giấy phép xây dựng đối với các công trình, nhà ở của người dân, tại họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 5/2025, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Danh Huy nêu rõ, quan điểm của Bộ Xây dựng là tất cả các thủ tục hành chính về cấp giấy phép đều thực hiện một cách nghiêm túc, rà soát lại, đơn giản hóa, bãi bỏ và tạo điều kiện tối đa cho người dân và doanh nghiệp, địa phương. 

Đối với giấy phép xây dựng, tại Công điện số 78/CĐ-TTg ngày 29/5/2025, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo rất rõ tập trung cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính lĩnh vực xây dựng.

anh-giay-phep-xay-dung-1751297825.jpg
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Trước hết, đối với những văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực xây dựng, quy định cấp phép, Bộ Xây dựng rà soát lại, từ các nghị định, thông tư do Bộ Xây dựng ban hành.

Thứ hai, Bộ Xây dựng tiến hành đánh giá, tổng kết, vì toàn bộ thủ tục cấp phép xây dựng cho người dân đều xuất cấp cho tất cả các địa phương. 

"Chúng ta tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người dân, doanh nghiệp nhưng cũng phải đánh giá tác động nếu có việc bỏ cấp phép đi, việc người dân được tự quyền xây dựng có ảnh hưởng gì đến quyền lợi hợp pháp của người dân và doanh nghiệp khác không. Bộ Xây dựng sẽ triển khai ngay việc tổng kết, đánh giá, từ các địa phương đánh giá lại", Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Danh Huy nhấn mạnh.

Miễn giấy phép không có nghĩa là miễn tuân thủ pháp luật

Dưới góc độ pháp lý, Luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch Công ty luật SBLAW cho biết: Chính sách miễn giấy phép xây dựng đối với một số loại công trình theo Luật Xây dựng sửa đổi năm 2020 là bước đi tích cực trong cải cách hành chính, giảm gánh nặng thủ tục cho người dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu không có cơ chế hậu kiểm hiệu quả, chính sách này có thể dẫn tới nhiều rủi ro pháp lý, ảnh hưởng cả người dân lẫn cơ quan quản lý.

Về phía người dân, việc miễn giấy phép dễ dẫn đến tâm lý “tự do xây dựng”, hiểu nhầm rằng không cần tuân thủ quy hoạch, tiêu chuẩn kỹ thuật. Trong thực tế, nếu xây sai vị trí, mật độ hoặc vượt chiều cao cho phép, công trình vẫn có thể bị xử phạt, thậm chí cưỡng chế tháo dỡ.

Ngoài ra, việc thiếu giấy phép có thể gây khó khăn khi hoàn công, xin cấp sổ hồng hoặc chuyển nhượng tài sản. Một số địa phương vẫn yêu cầu giấy phép làm căn cứ xác định tính hợp pháp của công trình, dẫn đến mâu thuẫn giữa quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng.

Đối với cơ quan quản lý, việc miễn giấy phép đồng nghĩa với việc bỏ qua một khâu tiền kiểm quan trọng. Nếu thiếu cơ chế thay thế như đăng ký xây dựng hoặc cơ sở dữ liệu cập nhật thường xuyên, chính quyền có thể mất dấu hiện trạng xây dựng trên địa bàn, ảnh hưởng tới quản lý quy hoạch, hạ tầng và phòng cháy chữa cháy. Ngoài ra, xử lý vi phạm sau xây dựng cũng dễ vướng khiếu kiện, đặc biệt nếu không chứng minh được công trình vi phạm tiêu chuẩn nào cụ thể.

Để tránh biến cải cách thành “kẽ hở”, Luật sư Hà cho rằng cần ban hành hướng dẫn chi tiết về hậu kiểm, cơ chế thông báo xây dựng và quy định rõ trách nhiệm quản lý của chính quyền cơ sở. Đồng thời, tuyên truyền để người dân hiểu rằng miễn giấy phép không có nghĩa là miễn tuân thủ pháp luật.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Theo Luật sư Hà, việc miễn giấy phép xây dựng với một số loại công trình có thể xem là một bước chuyển mang tính thử nghiệm nhằm hướng tới mô hình quản lý “hậu kiểm’ - vốn là đặc trưng của nền hành chính hiện đại, linh hoạt và lấy hiệu quả làm trung tâm. Do đó, hệ thống pháp luật cũng cần có những thay đổi mang tính chất pháp lý để thích ứng với “hậu kiểm”. Cụ thể:

Thứ nhất, phải có cơ chế “thay thế” giấy phép để làm đầu mối kiểm soát thông tin. Nếu bỏ giấy phép mà không có cơ chế đăng ký xây dựng, thông báo xây dựng hoặc cập nhật dữ liệu công trình thì chính quyền địa phương sẽ mất khả năng nắm bắt hiện trạng xây dựng, dẫn tới nguy cơ buông lỏng quản lý. Do đó, pháp luật cần bổ sung quy định bắt buộc chủ đầu tư nộp hồ sơ thông báo xây dựng (gồm bản vẽ mặt bằng, cam kết tuân thủ tiêu chuẩn…) để làm căn cứ hậu kiểm.

Thứ hai, xây dựng quy trình hậu kiểm rõ ràng, khả thi.

Hiện nay, khâu thanh tra – kiểm tra sau xây dựng còn manh mún, thiếu nhân lực và tiêu chuẩn rõ ràng. Pháp luật cần có quy trình kiểm tra định kỳ theo rủi ro, phân cấp cho chính quyền cơ sở chủ động kiểm tra thực tế theo các tiêu chí như: quy mô, khu vực xây dựng, độ phức tạp kỹ thuật…

Thứ ba, tăng chế tài, ràng buộc trách nhiệm chủ đầu tư và đơn vị thiết kế/thi công.

Trong mô hình hậu kiểm, việc xử lý vi phạm phải đủ mạnh để tạo sức răn đe. Pháp luật cần mở rộng trách nhiệm dân sự, hành chính, thậm chí hình sự, đối với cá nhân, tổ chức xây dựng trái phép, không tuân thủ quy chuẩn. Đồng thời, tăng trách nhiệm pháp lý của đơn vị tư vấn, giám sát – những chủ thể “cầm cân nảy mực” về chuyên môn.

Thứ tư, đồng bộ các quy định pháp luật và hạn chế tình trạng chồng chéo thẩm quyền giữa các bộ, ban, ngành liên quan.

Một trong những trở ngại lớn khi chuyển sang hậu kiểm là hệ thống pháp luật còn rời rạc, chồng chéo. Do đó, cần sửa đổi đồng bộ Luật Xây dựng, Luật Quy hoạch, Luật Đất đai, Luật Phòng cháy, chữa cháy để thống nhất cách hiểu về quyền, nghĩa vụ của chủ đầu tư và trách nhiệm quản lý nhà nước.

Tóm lại, miễn giấy phép xây dựng là biểu hiện ban đầu của một tư duy quản lý mới – coi trọng kết quả hơn thủ tục. Nhưng muốn xây dựng mô hình hậu kiểm hiệu quả, chúng ta phải “cải cách luật đi cùng cải cách thủ tục”, trong đó pháp luật cần đóng vai trò dẫn dắt để bảo đảm sự minh bạch, trách nhiệm và khả thi trong thực tiễn.