Hotline: 0969 332 828 Email: [email protected]
Thứ bảy, 23/12/2023 14:30 (GMT+7)

Điều kiện kinh doanh bất động sản từ 01/01/2025 với tổ chức, cá nhân

Từ ngày 01/01/2025, Luật Kinh doanh bất động sản 2023 có hiệu lực thi hành. Trong đó, có quy định về điều kiện kinh doanh bất động sản với tổ chức, cá nhân.

Điều kiện kinh doanh bất động sản từ 01/01/2025 với tổ chức, cá nhân
Ảnh minh họa.

Ngày 28/11/2023, Quốc hội thống nhất thông qua Luật Kinh doanh bất động sản 2023 và có hiệu lực từ 01/01/2025. Trong đó, tại Điều 9, Luật Kinh doanh bất động sản 2023 có quy định về điều kiện đối với tổ chức, cá nhân khi kinh doanh bất động sản như sau:

Tổ chức, cá nhân khi kinh doanh bất động sản phải thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp hoặc thành lập hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định của pháp luật về hợp tác xã, có ngành, nghề kinh doanh bất động sản (gọi chung là doanh nghiệp kinh doanh bất động sản), trừ trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4, Điều 9, Luật Kinh doanh bất động sản 2023.

Trường hợp tổ chức, cá nhân khi kinh doanh dịch vụ bất động sản thực hiện theo quy định tại khoản 5, Điều 9, Luật Kinh doanh bất động sản 2023.

Doanh nghiệp kinh doanh bất động sản phải đáp ứng các điều kiện sau đây:

- Không trong thời gian bị cấm hoạt động kinh doanh bất động sản, bị tạm ngừng, bị đình chỉ hoạt động theo bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

- Bảo đảm tỉ lệ dư nợ tín dụng, dư nợ trái phiếu doanh nghiệp trên số vốn chủ sở hữu;

- Doanh nghiệp kinh doanh bất động sản thông qua dự án bất động sản phải có vốn chủ sở hữu không thấp hơn 20% tổng vốn đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất dưới 20 ha, không thấp hơn 15% tổng vốn đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất từ 20 ha trở lên và phải bảo đảm khả năng huy động vốn để thực hiện dự án đầu tư; trường hợp doanh nghiệp kinh doanh bất động sản đồng thời thực hiện nhiều dự án thì phải có vốn chủ sở hữu đủ phân bổ để bảo đảm tỉ lệ nêu trên của từng dự án để thực hiện toàn bộ các dự án.

Cá nhân kinh doanh bất động sản quy mô nhỏ thì không phải thành lập doanh nghiệp kinh doanh bất động sản nhưng phải kê khai nộp thuế theo quy định của pháp luật.

Tổ chức, cá nhân bán nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng không nhằm mục đích kinh doanh hoặc bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng dưới mức quy mô nhỏ thì không phải tuân thủ các quy định của Luật Kinh doanh bất động sản 2023 nhưng phải kê khai nộp thuế theo quy định của pháp luật; trường hợp cá nhân bán, cho thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng thì còn phải thực hiện công chứng, chứng thực theo quy định tại khoản 5 Điều 44 Luật Kinh doanh bất động sản 2023.

Tổ chức, cá nhân khi kinh doanh dịch vụ bất động sản phải thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp hoặc thành lập hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định của pháp luật về hợp tác xã (gọi chung là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bất động sản), phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của Luật Kinh doanh bất động sản 2023.

Chính phủ quy định chi tiết điểm b và điểm c, khoản 2, Điều 9, Luật Kinh doanh bất động sản 2023; quy định việc xác định kinh doanh bất động sản quy mô nhỏ quy định tại khoản 3 và khoản 4, Điều 9, Luật Kinh doanh bất động sản 2023.

Theo quy định hiện hành tại Điều 10, Luật Kinh doanh bất động sản 2014 (sửa đổi bởi điểm a, khoản 2, Điều 75, Luật Đầu tư 2020) thì chỉ quy định điều kiện của tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản như sau:

- Tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản phải thành lập doanh nghiệp hoặc hợp tác xã (sau đây gọi chung là doanh nghiệp), trừ trường hợp quy định tại khoản 2, Điều 10, Luật Kinh doanh bất động sản 2014.

- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua bất động sản quy mô nhỏ, không thường xuyên thì không phải thành lập doanh nghiệp nhưng phải kê khai nộp thuế theo quy định của pháp luật.

Luật Kinh doanh bất động sản 2023 có hiệu lực từ ngày 01/01/2025.

Cùng chuyên mục

Sai sót trong kỳ thi có bị truy cứu trách nhiệm hình sự?
Theo Luật sư, đối với những sai phạm trong kỳ thi vào lớp 10 tại tỉnh Thái Bình, nếu là lỗi cố ý thì cần truy cứu trách nhiệm hình sự với người vi phạm, nếu chỉ là lỗi vô ý thì tiến hành xử lý kỷ luật để kịp thời khắc phục, sửa chữa, tránh những sai phạm tương tự có thể xảy ra.

Tin mới