Nghệ An thông tin về trường hợp tử vong vì bệnh bạch hầu
Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Nghệ An (CDC Nghệ An) thông tin, trường hợp bệnh nhân trú tại xã Phà Đánh, huyện Kỳ Sơn tử vong do bệnh Bạch hầu, xác định có 199 người tiếp xúc, điều tra dịch tễ đây là ổ bạch hầu ngày thứ 10 và 1 người đã tử vong.
CDC Nghệ An cho biết, trước đó đơn vị nhận được thông tin từ Trung tâm Bệnh nhiệt đới của Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An về 1 ca nghi mắc bạch hầu 18 tuổi. Ngay lập tức, Trung tâm đã cử Đoàn giám sát tiến hành điều tra và lấy mẫu bệnh phẩm chuyển Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương xét nghiệm chẩn đoán.
Đồng thời cử đội phản ứng nhanh đến tại địa phương nơi ghi nhận ca mắc tiến hành điều tra, giám sát hướng dẫn, chỉ đạo triển khai các biện pháp phòng chống và kiểm soát bệnh Bạch hầu.
Bệnh nhân được xác định là P.T.C (18 tuổi, xã Phà Đánh, huyện Kỳ Sơn), ngày 24/6 bệnh nhân có biểu hiện sốt, ho, đau họng, tự mua thuốc điều trị (thuốc tây và thuốc nam) nhưng không đỡ. Ngày 26, 27 và 28/6 bệnh nhân có tham gia dự kỳ thi THPT năm 2024 tại Trường THPT Kỳ Sơn. Sáng 29/6 sau khi thi xong, bệnh nhân về nhà nhưng tình trạng bệnh không đỡ.
Đến đêm 30/6 nhập viện huyện Kỳ Sơn với tình trạng: Mệt mỏi, da, niêm mạc kém hồng, sốt 37,8°C, ho, đau họng, khàn tiếng, sưng vùng cổ phải, nuốt đau, nổi hạch góc hàm 2 bên, amydal to có dịch mủ, có giả mạc trắng bám amydal và lưỡi gà, dễ bóc tách. Được chẩn đoán theo dõi bệnh bạch hầu.
Ngày 4/7, bệnh nhân được chuyển tuyến trên điều trị tại Bệnh viện Hữu Nghị Đa Khoa Nghệ An với tình trạng Sốc nhiễm khuẩn (R 57.2)/ Bạch hầu (A36) biến chứng viêm cơ tim (I40) + TD đợt cấp suy thận mạn (N18) + rối loạn đông máu (D68) + giảm tiểu cầu (D69.6). Lấy mẫu bệnh phẩm gửi Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương xét nghiệm chẩn đoán. Ngày 5/7, bệnh nhân tử vong, đã được hướng dẫn xử lý y tế.
Trong vòng 14 ngày trước khi có dấu hiệu khởi phát bệnh nhân ở tại ký túc xá, phòng số 5-6 của Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện Kỳ Sơn. Tại đây, có tiếp xúc thường xuyên với 7 bạn học ở cùng phòng và 92 bạn học ở các phòng lân cận (ôn thi cùng nhau, ăn cơm tập thể).
Qua điều tra, truy vết, xác định được 119 người có tiếp xúc với bệnh nhân từ lúc khởi phát đến lúc tử vong.
CDC Nghệ An nhận định, Kỳ Sơn là huyện có dịch bạch hầu lưu hành trong nhiều năm, các trường hợp có tiếp xúc với bệnh nhân trong đợt này phân bố ở nhiều xã trong huyện, và các xã thuộc huyện Tương Dương (là huyện lân cận). Thái độ người dân chưa nhận thức đúng về mức độ nguy hại của bệnh. Do vậy, cần tập trung, quyết triển khai đồng bộ các biện pháp xử lý ổ dịch và các hoạt động phòng chống dịch bạch hầu trên toàn huyện, hạn chế thấp nhất bệnh lây lan diện rộng, kéo dài.
Bạch hầu là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính có giả mạc ở tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản, mũi. Bệnh có thể xuất hiện ở da, các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hoặc bộ phận sinh dục. Đây là bệnh vừa nhiễm trùng vừa nhiễm độc, các tổn thương nghiêm trọng của bệnh chủ yếu là do ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu gây ra.
Vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae thuộc họ Corynebacteriaceae là nguyên nhân gây bệnh bạch hầu. Vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae có 3 type là Gravis, Mitis và Intermedius.
Bệnh lây truyền qua đường hô hấp do tiếp xúc với người bệnh hoặc người lành mang vi khuẩn bạch hầu. Bệnh còn có thể lây bằng việc tiếp xúc với đồ vật có dính chất bài tiết từ người bệnh.
Bất cứ độ tuổi nào cũng có thể mắc bệnh. Tuy nhiên, một số nhóm đối tượng có nguy cơ mắc bệnh cao hơn những người khác, như:
Trẻ lớn và người lớn tiếp xúc với bệnh nhân mắc/nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu hoặc sống tại các khu vực nguy cơ cao
Trẻ em và người lớn chưa được tiêm vaccine phòng bệnh bạch hầu theo lịch hoặc tiêm phòng bạch hầu chưa đầy đủ
Người đi du lịch đến vùng dịch tễ
Những người sống trong điều kiện đông đúc, mất vệ sinh
Trẻ em dưới 15 tuổi chưa có miễn dịch
Trẻ sơ sinh có miễn dịch thụ động từ mẹ truyền sang con nên không dễ mắc bệnh. Tuy nhiên, miễn dịch thụ động sẽ mất đi khi trẻ 6 tháng-1 tuổi. Nếu không được tiêm vaccine, trẻ có nguy cơ mắc bệnh cao.
Những người suy giảm miễn dịch rất dễ mắc bệnh và có tỷ lệ tái nhiễm bệnh