Quy định về thu hồi đất, cưỡng chế và điều kiện thu hồi đất?
Quy định của pháp luật hiện hành về thu hồi đất, cưỡng chế thu hồi đất và điều kiện thu hồi đất?
1. Thu hồi đất là gì?
“Thu hồi đất”, hiểu theo khái niệm được quy định tại khoản 11 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 thì đó là việc Nhà nước ra quyết định và tiến hành thu hồi lại quyền sử dụng đất đã trao cho người sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất nhưng có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai.
Căn cứ theo quy định của pháp luật hiện hành, cụ thể là Điều 16 và các điều từ Điều 61 đến Điều 65 Luật Đất đai năm 2013 thì việc thu hồi đất chỉ diễn ra nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
- Thu hồi đất để sử dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng; phát triển kinh tế – xã hội, vì lợi ích quốc gia, công cộng. Ví dụ thu hồi đất để làm căn cứ quân sự, bãi tập bắn quân sự hoặc thu hồi đất để làm đường giao thông, làm trường học, bệnh viện…
- Thu hồi đất do người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai.
- Thu hồi đất do người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất hoặc thu hồi đất nhằm di dời người dân khỏi khu vực có nguy cơ đe dọa đến tính mạng con người hoặc thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật.
2. Cưỡng chế thu hồi đất là gì?
Khái niệm “cưỡng chế thu hồi đất”: Hiện nay trong quy định của Luật Đất đai và các văn bản pháp luật khác về lĩnh vực đất đai chưa có quy định cụ thể về khái niệm “cưỡng chế đất đai”. Tuy nhiên căn cứ theo định nghĩa của từ “cưỡng chế” trong từ điển Tiếng Việt và quy định về nội dung cưỡng chế thu hồi đất tại Điều 71 Luật Đất đai năm 2013, có thể hiểu:
Cưỡng chế thu hồi đất hay còn gọi là cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất, được hiểu biện pháp mà cơ quan có thẩm quyền sử dụng những phương pháp, những biện pháp bắt buộc người sử dụng đất phải thực hiện việc bàn giao đất, thực hiện quyết định thu hồi đất đã được cơ quan có thẩm quyền ban hành trước đó. Việc thực hiện biện pháp cưỡng chế thu hồi đất được thực hiện sau khi các cơ quan nhà nước đã thuyết phục, thỏa thuận với người có đất bị thu hồi nhưng không đạt được sự chấp thuận hay hợp tác. Biện pháp cưỡng chế thu hồi đất được xác định là biện pháp cuối cùng được các cơ quan có thẩm quyền áp dụng trong quá trình thu hồi đất.
Với tính chất nhân đạo của Nhà nước ta thì cho dù họ có là người vi phạm hay không vi phạm cũng đều phải bảo đảm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của họ. Hiện nay, pháp luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành có quy định UBND cấp xã chịu trách nhiệm bảo quản tài sản sau cưỡng chế và chi phí bảo quản do người bị cưỡng chế chịu.
Tuy nhiên, tất cả các văn bản pháp luật không quy định thời hạn gửi giữ tài sản là bao lâu. Thực tế cho thấy, sau thời gian gửi và không sử dụng, tài sản bị hư hỏng, giảm hoặc mất công năng sử dụng. Theo thời gian, có những trường hợp chi phí gửi có giá trị lớn hơn giá trị thật của tài sản. Điều này không chỉ gây lãng phí mà còn gây khó khăn cho UBND cấp xã.
Thực tiễn cho thấy, số vụ phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất chiếm tỉ lệ không lớn so với tổng số quyết định thu hồi đất. Tuy nhiên, mỗi vụ cưỡng chế luôn tiềm ẩn nguy cơ chống đối cao vì đây là đặc điểm phổ biến của vụ việc cưỡng chế, hành vi chống đối diễn ra rất đa dạng và đều có sự chuẩn bị từ trước, thậm chí là chuẩn bị rất chu đáo.
Chính vì vậy, trong suốt quá trình cưỡng chế từ khâu chuẩn bị đến khi tiến hành và giải quyết các vấn đề pháp lí phát sinh sau cưỡng chế, cần phải có sự chỉ đạo tập trung, thống nhất trong quá trình cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất trong trường hợp đặc biệt, quan trọng. Tuy nhiên, hiện nay Luật Đất đai năm 2013 không quy định Chủ tịch UBND cấp tỉnh có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế.
Về lâu dài, cần có văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn về nội dung thu hồi đất để tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan chức năng tiến hành cưỡng chế đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của người dân.
Theo đó, Nhà nước cần bổ sung, sửa đổi những quy định về cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất như: (1) quy định cụ thể hơn về nội dung và cách thức thực hiện công tác vận động, thuyết phục người có đất bị thu hồi; (2) bổ sung quy định định thời điểm tiến hành cưỡng chế; (3) quy định thời hạn xử lí tài sản trong quá trình tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất; (4) quy định về cụ thể về quyền phỏng vấn, ghi âm, quay phim, chụp ảnh trong cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất.
3. Điều kiện được thu hồi đất
Hiện nay, căn cứ theo quy định tại Điều 71 Luật Đất đai năm 2013, Điều 17 Nghị định 43/2014/NĐ-CP thì việc cưỡng chế thu hồi đất được thực hiện như sau:
- Về nguyên tắc cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất:
Cũng giống như việc cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc thì việc cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất cũng phải đáp ứng những nguyên tắc nhất định như phải tiến hành công khai, dân chủ, khách quan, đảm bảo trật tự, an toàn, theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Đồng thời việc cưỡng chế chỉ được thực hiện trong giờ hành chính.
- Về điều kiện cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất (cưỡng chế thu hồi đất):
Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc cưỡng chế thu hồi đất chỉ được thực hiện khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:
- Người sử dụng đất có đất bị thu hồi cố tình chống đối, không chấp hành quyết định thu hồi đất mặc dù đã được UBND cấp xã cùng các đoàn thể phối hợp với Ủy ban MTTQ VN cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng đã vận động, thuyết phục.
- Quyết định cưỡng chế thu hồi đất đã được công bố công khai, và được niêm yết công khai tại trụ sở UBND cấp xã, các địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư như trụ sở thôn xóm, nhà văn hóa… nơi có đất bị thu hồi.
- Chỉ thực hiện việc cưỡng chế thu hồi đất khi Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đã có hiệu lực thi hành.
- Việc cưỡng chế thu hồi đất chỉ được thực hiện khi người bị cưỡng chế đã nhận được Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất có hiệu lực thi hành. Nếu người bị cưỡng chế thu hồi đất cố tình vắng mặt khi giao quyết định cưỡng chế hoặc từ chối không nhận quyết định cưỡng chế này thì UBND cấp xã phải có biên bản ghi nhận về sự việc này.