Chuyển án tù sang phạt tiền – Pháp luật quy định thế nào?

Nói đến hình sự thì người ta nói đến hai vấn đề lớn đó là tội phạm về hình phạt. Đối với một vụ án hình sự thì cũng có hai vấn đề mà cơ quan tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng quan tâm là bị cáo có tội hay không, nếu có tội rồi thì hình phạt như thế nào?

Về nguyên tắc thì nguyên tắc hiến định ở Việt Nam là tòa án xét xử hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm. Đối với vụ án hình sự, khi tòa án cấp sơ thẩm tuyên bản án để kết tội đối với bị cáo mà bị cáo không đồng ý đối với bản án đó thì có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định, khi bị cáo kháng cáo thì bản án sơ thẩm không có hiệu lực pháp luật, vụ việc sẽ được xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Về nguyên tắc là tòa án cấp phúc thẩm sẽ chỉ giải quyết lại vụ án hình sự khi có kháng cáo hoặc kháng nghị. Phạm vi xét xử phúc thẩm thì hội đồng xét xử có thể giữ nguyên bản bản án sơ thẩm, sửa bản án sơ thẩm hoặc hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại hoặc điều tra lại... sau khi tòa án cấp sơ thẩm tuyên án thì bị cáo cũng có thể kháng cáo kêu oan hoặc kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt (đề nghị thay đổi loại hình phạt, thay đổi mức hình phạt).

chuyen-an-tu-sang-phat-tien-phap-luat-quy-dinh-the-nao-1750640602.jpg
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Về nguyên tắc thì hình phạt chỉ áp dụng đối với người phạm tội nếu không được miễn hình phạt. Bởi vậy, khi tòa án kết tội đối với bị cáo mà bị cáo không được miễn hình phạt, không thuộc trường hợp được miễn hình phạt thì tòa án sẽ phải tuyên một hình phạt đối với bị cáo là hình phạt chính và có thể áp dụng hình phạt bổ sung.

Điều 32, Bộ luật Hình sự quy định về các hình phạt có thể áp dụng đối với bị cáo như sau:

- Hình phạt chính bao gồm: Cảnh cáo; Phạt tiền; Cải tạo không giam giữ; Trục xuất; Tù có thời hạn; Tù chung thân; Tử hình.

- Hình phạt bổ sung bao gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; Cấm cư trú; Quản chế; Tước một số quyền công dân; Tịch thu tài sản; Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.

Bộ luật Hình sự cũng quy định nguyên tắc áp dụng hình phạt là đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung.

Điều 50 Bộ luật Hình sự cũng quy quy định việc quyết định hình phạt sẽ căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Theo đó, việc quyết định hình phạt căn cứ vào “quy định của Bộ luật Hình sự” là căn cứ vào “khung hình phạt”, loại hình phạt, các trường hợp miễn hình phạt, chuyển khung hình phạt... trên cơ sở đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm để có loại hình phạt và mức hình phạt phù hợp với từng trường hợp phạm tội.

Về nguyên tắc là sẽ ưu tiên áp dụng hình phạt ngoài tù như phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng cho hưởng án treo ... Chỉ áp dụng hình phạt tù nếu như không thể áp dụng được các loại hình hình phạt khác.

Nghị quyết 49/TW của Ban Chấp hành Trung ương cũng có nội dung quy định trong quá trình thực hiện cải cách tư pháp, một trong những nhiệm vụ trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật hình sự là cần phải “Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng....”.

Một nguyên tắc trong việc áp dụng pháp luật hình sự là khi lựa chọn loại hình hình phạt để áp dụng đối với người phạm tội thì sẽ lựa chọn từ hình phạt ít nghiêm khắc đến hình phạt nghiêm khắc và ưu tiên lựa chọn hình phạt “ngoài tù”, áp dụng hình phạt tù sẽ là giải pháp cuối cùng nếu không có thể lựa chọn được các loại hình phạt khác ít nghiêm khắc hơn.

Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân được ban hành mới đây cũng quy định: “Sửa đổi các quy định về pháp luật hình sự, dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự để bảo đảm nguyên tắc khi xử lý các sai phạm, vụ việc về dân sự kinh tế, ưu tiên áp dụng các biện pháp về dân sự, kinh tế, hành chính trước, cho phép các doanh nghiệp, doanh nhân được chủ động khắc phục sai phạm, thiệt hại. Trường hợp thực tiễn áp dụng pháp luật có thể dẫn đến xử lý hình sự hoặc không xử lý hình sự thì kiên quyết không áp dụng xử lý hình sự. Trường hợp đến mức xử lý hình sự thì ưu tiên các biện pháp khắc phục hậu quả kinh tế trước và là căn cứ quan trọng để xem xét các biện pháp xử lý tiếp theo...”.

Bởi vậy, về mặt lý luận, lý thuyết thì hoàn toàn có thể áp dụng hình phạt phạt tiền thay vì phạt tù đối với tội phạm về kinh tế, đặc biệt là khi thực hiện Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân giai đoạn hiện nay.

Việc quyết định hình phạt nào đối với người phạm tội sẽ do tòa án quyết định trên cơ sở căn cứ pháp luật và trình tự thủ tục luật định. Về nguyên tắc là áp dụng hình phạt nào thì tội danh đó phải có quy định. Nếu tội danh mà chỉ quy định một loại hình phạt thì hội đồng xét xử phải tuân thủ quy định đó, trừ trường hợp áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để cho phép chuyển sang loại hình hình phạt khác nhẹ hơn.

Trường hợp điều luật quy định nhiều hình phạt chính thì hội đồng xét xử có thể lựa chọn một trong các hình phạt chính để áp dụng đối với bị cáo trong từng vụ án cụ thể sao cho hình phạt đó phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Điều 211, Bộ luật Hình sự quy định về tội "Thao túng thị trường chứng khoán" có 02 loại hình phạt chính là phạt tiền và phạt tù.

Khung 1: Phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Khung 2: Phạt tiền từ 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm đối với các trường hợp:

- Có tổ chức;

- Thu lợi bất chính 1.500.000.000 đồng trở lên;

- Gây thiệt hại cho nhà đầu tư 3.000.000.000 đồng trở lên;

- Tái phạm nguy hiểm.

Hình thức xử phạt bổ sung: Theo Khoản 3 Điều 211 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 250.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Toà án cấp phúc thẩm có quyền căn cứ vào Điều 211 Bộ luật Hình sự và các tình tiết chứng cứ mới giai đoạn phúc thẩm để quyết định hình phạt phạt phù hợp.

Tiến sĩ, Luật sư ĐẶNG VĂN CƯỜNG

Đoàn Luật sư TP. Hà Nội