Hotline: 0969 332 828 Email: [email protected]
Thứ năm, 05/03/2020 05:13 (GMT+7)

Tranh chấp chia tài sản chung và thừa kế ở Biên Hòa: Nhiều tình tiết cần làm rõ...

Ngày 29/5/2019 ông Trương Ngọc Thành đã có đơn kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 14/2019/DS-ST tranh chấp về chia tài sản chung và chia tài sản thừa kế do Tòa án nhân dân TP.Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử ngày 14 và 15/5/2019.

Ông Thành cho rằng phiên tòa sơ thẩm này đã có quá nhiều sai sót, như: vi phạm tố tụng trong việc thu thập chứng cứ, công khai chứng cứ; không thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai; chia thừa kế theo di chúc khi bản di chúc chưa có hiệu lực...

Một trong những thửa đất hiện đang xảy ra tranh chấp chia tài sản chung và chia thừa kế tại phường Anh Bình, TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Bà Bùi Thị Mẽ và ông Trương Văn Lễ (sinh năm 1924, chết năm 2008) là vợ chồng, ngụ tại phường An Bình, TP.Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Hai vợ chồng bà Mẽ ông Lễ sinh được hai người con (là ông Trương Ngọc Thành và bà Trương Phùng Đang). Ngoài ra cả hai vợ chồng không có con nuôi và con ngoài giá thú.

Ngày 24/02/2006 bà Mẽ và ông Lễ có lập di chúc chung tại Phòng công chứng số 1, tỉnh Đồng Nai, có nội dung: “...Vợ chồng chúng tôi có tạo tài sản như sau: một lô đất có diện tích 12.096m2 đất tọa lạc tại khu phố 2 (nay là khu phố 1) phường An Bình, TP.Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B400179 do UBND TP.Biên Hòa ký ngày 08/10/1992. Nay chúng tôi lập di chúc để định đoạt tài sản thuộc sở hữu của chúng tôi nêu trên như sau: Sau khi chúng tôi qua đời, tài sản nêu trên được chia như sau: Con gái Trương Phùng Đang, sinh năm 1960... được trọn quyền sử dụng 4.200m2 đất nay là khu phố 1, phường An Bình, TP.Biên Hòa, mặt tiền đường Trần Quốc Toản và cho 01 căn nhà tình nghĩa do UBND TP.Biên Hòa cấp cho tôi năm 1991...Phần diện tích đất còn lại sẽ được chia theo luật định”.

Ngày 18/01/2008, ông Lễ bị bệnh qua đời. Trước khi qua đời ông Lễ không có thay đổi, bổ sung hay hủy bỏ di chúc đã lập. Vì bà Mẽ còn sống nên bản di chúc trên chưa phát sinh hiệu lực. Tuy nhiên, ngày 12/5/2016 bà Mẽ đã lập văn bản sửa đổi nội dung di chúc lập chung với ông Lễ vào ngày 24/02/2006 liên quan đế phần tài sản của bà Mẽ.

Cụ thể, phần tài sản của bà Mẽ trong khối tài sản chung nêu trong di chúc chung với ông Lễ, thì bà Mẽ không chỉ định để lại cho (con gái) bà Trương Phùng Đang nữa. Khi bà Mẽ còn sống tài sản này thuộc quyền định đoạt của bà Mẽ, khi bà Mẽ qua đời tài sản này chia theo pháp luật hoặc định đoạt bằng di chúc khác do bà Mẽ lập riêng.

Trong thời gian sinh sống chung, ông Thành và ông Trương Văn Lễ thống nhất sử dụng đất trống (thửa số 34 tờ bản đồ số 8) để làm bãi giữ xe tạo thu nhập trang trải chi phí gia đình. Sau khi ông Lễ mất, ông Thành vẫn tiếp tục làm bãi đậu xe, đăng ký kê khai sử dụng đất (thửa 34 tờ bản đồ số 8) và đóng thuế sử dụng đất hàng năm.

Trong khi đó, bà Bùi Thị Mẽ và bà Trương Phùng Đang không muốn ông Thành làm bãi giữ xe nữa vì bà Đang cho rằng bãi giữ xe (thửa số 34 tờ bản đồ số 8) là di sản thừa kế mà ông Trương Văn Lễ đã chỉ định cho bà Đang hưởng theo di chúc. Còn bà Mẽ cho rằng việc ông Thành tiếp tục làm bãi giữ xe là cản trở quyền quản lý, sử dụng phần tài sản còn lại của bà Mẽ nên bà Mẽ đã khởi kiện ra Tòa án nhân dân TP.Biên Hòa (gọi tắt là Tòa Biên Hòa), phân chia tài sản chung giữa bà Mẽ với ông Lễ và chia thừa kế đối với phần di sản ông Lễ có di chúc chia theo pháp luật.

Tòa trên bảo đình chỉ, tòa dưới vẫn xử (?!)...

Ngày 14 và 15/5/2019, Tòa Biên Hòa đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án trên. Đến ngày 29/5/2019 ông Trương Ngọc Thành đã có đơn kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 14/2019/DS-ST tranh chấp về chia tài sản chung và chia tài sản thừa kế do Tòa Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử ngày 14 và 15/5/2019.

Mặc dù Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai yêu cầu Tòa án nhân dân TP.Biên Hòa cần đình chỉ giải quyết vụ án nhưng vụ án vẫn được đưa ra xét xử.

Ông Thành cho rằng phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ việc trên đã có quá nhiều sai sót, như: vi phạm tố tụng trong việc thu thập chứng cứ, đối chất, hòa giải, công khai chứng cứ; không thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai; chia thừa kế theo di chúc khi bản di chúc chưa phát sinh hiệu lực...

Cụ thể sự việc, ngày 14/7/2017, ông Trương Ngọc Thành có đơn khiếu nại đến Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai về việc giải quyết đơn của Chánh án Tòa Biên Hòa. Đến ngày 27/7/2017, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai ra quyết định giải quyết khiếu nại số 42/2017/QĐ-GQKN về việc này.

Về việc ông Thành yêu cầu “Tòa Biên Hòa ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu chia thừa kế theo di chúc chung của ông Trương Văn Lễ và bà Bùi Thị Mẽ lập ngày 24/02/2006”, thì Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Nai nói rõ rằng: ngày 26/12/2013 Tòa Biên Hòa thụ lý vụ án dân sự số 832/2013/TLST-DS đối với yêu cầu trên của bà Mẽ là không phù hợp.

Dẫn theo quy định của pháp luật, cụ thể tại điểm g khoản 1, Điều 217 và điểm b khoản 1 Điều 192 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, quy định “Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp sau đây:...người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó”. Mặt khác, tại Điều 668 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”.

“Căn cứ theo các quy định trên, thấy rằng: yêu cầu khởi kiện của bà Mẽ và yêu cầu độc lập của bà Trương Phùng Đang về yêu cầu chia thừa kế tài sản theo di chúc chung của ông Lễ và bà Mẽ thuộc trường hợp “chưa đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật”.

Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Nai cũng nhận định rõ: “Việc Tòa Biên Hòa thụ lý đối với yêu cầu của bà Mẽ, bà Đang về việc thừa kế tài sản theo di chúc chung của ông Lễ và bà Mẽ là không đúng theo quy định của pháp luật. Như vậy, việc ông Thành yêu cầu “Tòa Biên Hòa ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu chia thừa kế theo di chúc chung của ông Trương Văn Lễ và bà Bùi Thị Mẽ lập ngày 24/02/2006” là có căn cứ nên chấp nhận”. Mặc dù vậy, Tòa Biên Hòa lại không hề tiếp thu ý kiến của tòa cấp trên mà vẫn đưa vụ án ra xét xử.

Nhiều tình tiếtcó dấu hiệuvi phạm nghiêm trọng tố tụng...

Theo đơn kháng cáo của ông Trương Ngọc Thành, về tố tụng, Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng tố tụng vì thụ lý đơn khởi kiện của bà Bùi Thị Mẽ không đúng quy định của pháp luật. Cụ thể bà Mẽ là người không biết chữ nhưng trong đơn khởi kiện của bà gửi tòa án cấp sơ thẩm lại không có người làm chứng và chứng nhận của UBND cấp xã theo quy định tại đoạn 2, khoản 3, Điều 164 Bộ Luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004.

Ngoài ra, do bà Mẽ không biết chữ nên toàn bộ các bản tự khai, tường trình do bà ký tên đều không phải do bà viết hoặc đánh máy, vì vậy nội dung trong đó không đảm bảo chắc chắn có phải là lời bà đã khai hay không. Tòa sơ thẩm chỉ dựa vào các bản khai đó mà không tiến hành lấy lời khai của bà Mẽ theo quy định tại Điều 98 BLTTDS đối với người không biết chữ là vi phạm nghiêm trọng tố tụng.

Bà Mẽ được lập vi bằng số 179/2018 là bà không biết chữ. Trong khi các văn bản công chứng ủy quyền của bà đều không có người làm chứng, nhưng tòa sơ thẩm đã bỏ qua..

Đồng thời, do bà Mẽ không biết chữ, không ký tên được (chỉ điểm chỉ) và không có người làm chứng nên giấy ủy quyền của bà Mẽ cho bà Lý Thị Ngọc Hiệp do Văn phòng công chứng Vũ Thụy Vy chứng nhận ngày 07/04/2018 cũng không có hiệu lực vì vi phạm khoản 2 Điều 47 Luật Công chứng năm 2014, sửa đổi bổ sung 2018; cụ thể luật quy định: “Trường hợp người yêu cầu công chứng không đọc được, không ký tên được... thì việc công chứng phải có người làm chứng”.

Mặt khác, cấp tòa sơ thẩm sử dụng bản photo không có công chứng, chứng thực Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B400179 ngày 08/10/1992 để làm căn cứ xét xử là vi phạm quy định tại Điều 95 BLTTDS. Cũng theo Điều 95 BLTTDS, việc sử dụng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 191369 do UBND TP Biên Hòa cấp sai cho ông Trương Văn Lễ để xét xử là sai quy định của luật đất đai và luật dân sự (ông Trương Văn Lễ mất ngày 18/01/2008 nhưng vẫn được cấp cấp giấy chứng nhận này vào ngày 06/8/2010)…

Vì những lý do, tình tiết nói trên, cũng như nhiều chi tiết sai sót khác trong tòa sơ thẩm, ông Thành đề nghị Tòa phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số 14/2019/DS-ST tranh chấp về chia tài sản chung và chia tài sản thừa kế do Tòa Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử ngày 14 và 15/5/2019.

Thanh Huy

Cùng chuyên mục

Hợp đồng giả cách và cảnh báo người dân cần biết
Do thiếu những hiểu biết cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, nhiều người dân lỡ ký hợp đồng giả cách đã gặp những rắc rối phát sinh khi xảy ra tranh chấp, dẫn đến rủi ro mất tài sản.
Công ty Matexim Hải Phòng - Animex: Cần bảo đảm lợi ích hợp pháp của người cao tuổi khi thực hiện dự án
Bà con Nhân dân (phần lớn là người cao tuổi) sống ở khu tập thể 7B (nay là số 20) đường Trần Phú có “Đơn kêu cứu” về việc 16 hộ gia đình đang quản lí, sử dụng nhà đất hợp pháp từ những năm 1988 đến nay. Tuy nhiên, ngày 10/8/2023, Công ty Matexim Hải Phòng - Animex tổ chức ngăn rào chắn tôn cản trở cuộc sống và sinh hoạt của người dân…
Huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định: Cần xử lí nghiêm hành vi quan hệ bất chính của Chủ tịch UBND xã Nghĩa Bình
Bà Ngô Thị Đào, 74 tuổi, ở thôn Thiên Bình, xã Nghĩa Bình, huyện Nghĩa Hưng tố cáo: Ông Bùi Văn Đạt, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Nghĩa Bình đã có vợ con nhưng có hành vi quan hệ bất chính với con dâu bà là chị Lưu Thị T, đảng viên, công chức Văn phòng HĐND và UBND xã Nghĩa Bình...
Đại Hiệp - Đại Lộc - Quảng Nam: Một hộ dân không được cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất vì sai sót của UBND xã?
Vừa qua tòa soạn nhận được phản ảnh của đại diện hộ gia đình ông Nguyễn Đình Tiến ở tại thôn Tích Phú, xã Đại Hiệp, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam phản ảnh việc hộ ông bị ảnh hưởng và thiệt hại do không được cấp sổ đỏ vì sai sót trong quá trình cập nhật sổ địa chính từ năm 1998 của xã Đại Hiệp . Được biết thửa đất của gia đình ông đã làm nhà ở và sử dụng ổn định , không có tranh chấp từ năm 1995 cho đến nay. Thửa đất có số thửa 723 tờ bản đồ số 2 diện tích 920 m2.

Tin mới