Thái Bình: Có hay không việc cơ quan điều tra bỏ lọt tội phạm?
Như báo đã phản ánh, bà Trần Thị Vân, trú tại xã Hồng Lý, Vũ Thư (Thái Bình) sử dụng GCN QSDĐ chuyển nhượng cho nhiều người rồi bán cho anh Nguyễn Ngọc Tứ để chiếm đoạt 300.000.000 đồng. Vậy mà, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Bình lại ra quyết định “không khởi tố vụ án hình sự” khiến dư luận đặt câu hỏi liệu có bỏ lọt tội phạm hay không?
Không đồng ý với Quyết định “không khởi tố vụ án hình sự”, anh Nguyễn Ngọc Tứ ngày 05/9/2019 đã gửi đơn khiếu nại đến Thủ trưởng CQĐT Công an tỉnh Thái Bình. Ngày 11/9/2019, Cơ quan CSĐT có Thông báo số 04/TB thụ lý đơn khiếu nại, thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định tại khoản 1, Điều 475, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 do Thủ trưởng CQĐT xem xét, giải quyết trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nhưng không hiểu vì vấn đề gì, ngày 01/11/2019 (tức là 50 ngày) Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Bình mới giao cho anh Tứ Quyết định giải quyết khiếu nại số 04/QĐ ngày 31/10/2019.
Trong Quyết định giải quyết khiếu nại, Thủ trưởng CQĐT Công an tỉnh Thái Bình không phủ nhận kết quả điều tra nêu trên, tức là cả Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Bình cũng như người đứng đầu của cơ quan này là Thủ trưởng CQĐT đều xác định bà Trần Thị Vân đã có hành vi gian dối. Vậy thử hỏi bà Trần Thị Vân đã dùng thủ đoạn, hành vi gian dối để làm gì mà CQĐT cứ minh chứng cho hành vi lừa đảo bán cái mình không có cho anh Tứ để chiếm đoạt của 300.000.000 đồng? Trong khi, ngày 20/12/2017, tại trụ sở Công ty TNHH may Việt Anh của bà Vân, anh Tứ đã đưa cho bà Vân 300.000.000 đồng trong tổng số tiền 350.000.000 đồng mua bán, chuyển nhượng mảnh đất.Như vậy, việc Thủ trưởng CQĐT Công an tỉnh Thái Bình vẫn giữ nguyên Quyết định không khởi tố vụ án hình sự số 08 ngày 22/8/2019 của Cơ quan CSĐT là không có căn cứ, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm. Bởi trong Biên bản làm việc ngày 27/8/2019, Cơ quan CSĐT đã thông báo cho anh Nguyễn Ngọc Tứ biết kết quả điều tra, xác minh đơn tố giác bà Trần Thị Vân có hành vi lừa đảo chiếm đoạt 300.000.000 đồng ghi rõ: “Bà Trần Thị Vân đã có hành vi gian dối về việc thửa đất số 326/7, tờ bản đồ số 06 địa chỉ xã Hồng Lý, huyện Vũ Thư khi đưa Giấy chứng nhận QSDĐ của thửa đất số 326/7, tờ bản đồ số 06 địa chỉ xã Hồng Lý, huyện Vũ Thư đã được chuyển nhượng và sang tên cho người khác từ năm 2010 nhưng bà Vân vẫn sử dụng Giấy chứng nhận của thửa đất đã hết giá trị sử dụng đưa cho anh Tứ giao dịch liên hệ với các Ngân hàng để thế chấp vay vốn nhưng không được các Ngân hàng cho vay. Sau đó, bà Vân sử dụng Giấy chứng nhận quyền QSDĐ trên để giao dịch, mua bán với anh Tứ và chỉ cho anh Tứ và nhân viên công chứng, nhân viên Ngân hàng thửa đất có căn nhà 03 tầng đang xây thô nằm trên diện tích đất của Công ty may Việt Anh”.
Sau khi cầm 300.000.000 đồng anh Tứ giao, bà Vân đã trực tiếp viết Giấy bán nhà có nội dung: “Nay, ngày 20 tháng 12 năm 2017, tôi đã nhận trước ba trăm triệu đồng chẵn. Người nhận tiền - Trần Thị Vân”. Đây là bằng chứng, chứng cứ rõ ràng sao CQĐT vẫn cho là không có đủ căn cứ để chứng minh bà Trần Thị Vân chiếm đoạt số tiền 300.000.000 đồng của anh Tứ và dựa vào lý do “Bà Vân khai là bị anh Tứ ép viết giấy”?
Lý do thứ nhất, Thủ trưởng CQĐT cho là “Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và tài sản gắn liền với đất đối với thửa đất số 326/7, tờ bản đồ số 06 địa chỉ xã Hồng Lý, huyện Vũ Thư không được thực hiện trước mặt công chứng viên vì vi phạm Điều 48, Luật Công chứng năm 2014, các bên trình bày về nội dung và hoàn cảnh ký khác nhau”.Nếu tin vào lời khai này thì CQĐT phải chứng minh được bà Vân bị ép, còn không chứng minh được như Thủ trưởng CQĐT thừa nhận “Bà Vân không đưa ra được tài liệu chứng minh bị anh Tứ ép viết giấy” nghĩa là việc bà Vân viết Giấy bán nhà để chiếm đoạt của anh Tứ 300.000.000 đồng là một thực tế không cần bàn cãi. Nhưng tại sao Thủ trưởng CQĐT Công an tỉnh Thái Bình lại giữ nguyên Quyết định không khởi tố vụ án hình sự đối với hành vi gian dối, lừa đảo này vì các lý do sau:
Dựa vào lý do này là không có cơ sở bởi tài liệu, chứng cứ chứng minh việc bà Vân dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt của anh Tứ 300.000.000 đồng là Giấy bán nhà ngày 20/12/2017 do chính tay bà Vân viết, ký chứ không phải là Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và tài sản gắn liền với đất đối với thửa đất số 326/7, tờ bản đồ số 06 đã được công chứng tại Văn phòng công chứng Đặng Ngọc Tuấn mà Thủ trưởng CQĐT cho là vi phạm Điều 48 Luật Công chứng năm 2014; các bên trình bày về nội dung và hoàn cảnh ký khác nhau.
Lý do thứ hai, Thủ trưởng CQĐT nêu là: “Mặc dù bà Vân không đưa ra được tài liệu chứng minh bị anh Tứ ép buộc nhưng tài liệu xác minh của CQĐT xác định trước ngày 20/12/2017 giữa anh Tứ và bà Vân có nhiều giao dịch vay, mượn tiền, mua bán nhà đất, mua bán xe ô tô với nhau nhưng việc thanh toán chưa dứt điểm, còn đang tranh chấp, trong đó bà Vân vẫn thừa nhận còn nợ anh Tứ khoản tiền 300.000.000 đồng nêu trên”. Đúng là nực cười, kết luận điều tra nói rõ ràng “bà Vân không đưa ra được tài liệu chứng minh bị anh Tứ ép buộc” “bà Vân đã thừa nhận còn nợ anh Tứ khoản tiền 300.000.000 đồng”…Vậy tại sao hết Cơ quan CSĐT rồi đến Thủ trưởng CQĐT cứ “cài” nội dung giữa anh Tứ và bà Vân có các giao dịch vay mượn tiền, mua bán nhà đất, mua bán xe ô tô. Phải chăng đây là cách để đánh tráo khái niệm làm thay đổi bản chất vụ việc?
Mà phải thấy được quan hệ làm ăn giữa anh Tứ với bà Vân và việc bà Vân dùng thủ đoạn, hành vi gian dối để bán cái mình không có cho anh Tứ hòng chiếm đoạt 300.000.000 đồng là 2 việc độc lập, không có liên quan gì đến nhau.
Vì thế, dư luận muốn biết căn cứ vào nội dung nào, tài liệu, chứng cứ nào để Thủ trưởng CQĐT kết luận do có giao dịch vay mượn tiền, mua bán nhà đất, mua bán xe ô tô giữa anh Tứ và bà Vân trước đó nên không thể xảy ra khả năng bà Vân lừa đảo chiếm đoạt 300.000.000 đồng của anh Tứ? Tại sao thửa đất bà Vân đã bán cho nhiều người từ tháng 01/2005 mà bà Vân vẫn có được bản gốc Giấy CNQSDĐ số L804268 để đến tháng 12/2017 tiếp tục bán cho anh Tứ, CQĐT lý giải là do bà Vân trình bày mất Giấy CNQSDĐ và xin cấp lại tháng 7/2009. Trả lời như thế là không thuyết phục vì đến ngày 08/01/2015 bà Vân vẫn có Trích lục bản đồ địa chính do Chủ tịch UBND xã Hồng Lý - Trần Quốc Hoàn ký xác nhận; Thậm chí đến ngày 14/12/2017, bà Vân vẫn được Giám đốc Văn phòng đăng ký đất đai huyện Vũ Thư - Trần Tuấn Thịnh ký xác nhận Trích lục bản đồ địa chính để giao bán cho anh Tứ.
Vậy đây có phải đường dây làm hồ sơ, tài liệu để lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của Nhà nước và công dân hay không mà CQĐT Công an tỉnh Thái Bình lại lờ đi không xác minh làm rõ? Vấn đề này chúng tôi sẽ đề cập ở các bài viết sau.
Lý do thứ ba, Thủ trưởng CQĐT đưa ra là: “Anh Tứ có đủ điều kiện để kiểm tra, xác định thửa đất số 67 (thửa 326/7 cũ), tờ bản đồ số 29 (tờ số 6 cũ) địa chỉ xã Hồng Lý, huyện Vũ Thư ghi trên Trích lục bản đồ địa chính và thửa đất có ngôi nhà 03 tầng xây thô trên đất của Công ty may Việt Anh ở xã Hồng Lý, huyện Vũ Thư không trùng khớp với nhau về địa điểm, hướng và diện tích”. Với lý do này xin thưa Thủ trưởng CQĐT, anh Tứ không phải là cán bộ địa chính hay thầy địa lý để phát hiện ra sự không trùng khớp với nhau về địa điểm, hướng và diện tích. Nếu anh Tứ biết mảnh đất có căn nhà 03 tầng đang xây thô mà bà Vân chỉ cho anh và nhân viên công chứng, nhân viên Ngân hàng không phải là mảnh đất nằm trong Giấy CNQSDĐ số L804268 thì làm sao bị bà Vân và một số người cấp Giấy CNQSDĐ; Trích lục bản đồ địa chính lừa, hãm hại.
Song cũng cần phải nói rằng, không có văn bản Pháp luật nào quy định khi mua bán, chuyển nhượng nhà đất các bên tham gia giao dịch buộc phải biết về địa điểm, hướng và diện tích. Và cũng không có văn bản Pháp luật nào quy định nếu người mua, nhận chuyển nhượng nhà đất không biết về địa điểm, hướng và diện tích của nhà đất mình mua hoặc nhận chuyển nhượng dẫn đến việc bị người bán chiếm đoạt tiền thì người bán này coi như không có tội.
Với những phân tích ở trên cho thấy quá trình xác minh, điều tra vụ án này, Thủ trưởng CQĐT Công an tỉnh Thái Bình đã có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, vi phạm nghiêm trọng việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ được quy định tại các Điều 15, Điều 108 - Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Vì vậy, quyết định bác đơn khiếu nại của anh Nguyễn Ngọc Tứ là không có căn cứ, Báo đề nghị Thanh tra Bộ Công an; Cơ quan điều tra - Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét khởi tố vụ án “không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội” theo quy định tại Điều 369 - Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giữ nghiêm kỷ cương, phép nước.